Tóm tắt Sách “6 Phát Minh Làm Nên Thời Đại”: Thế Giới Hiện Đại Được Hình Thành Thế Nào - Steven Johnson
Sáu
phát minh làm nên thời đại khám phá lịch sử đổi mới, cách các đổi mới kết nối với
nhau, tạo ra môi trường cho sự thay đổi và nguồn gốc của các đổi mới.
Steven
Johnson là một tác giả khoa học đại chúng, người đã viết 10 cuốn sách về các chủ
đề như đổi mới, khoa học nhận thức và thậm chí cả trò chơi điện tử, đồng thời
là người dẫn chương trình truyền hình cùng tên với cuốn sách này “How We Got to
Know”, chương trình khám phá lịch sử đổi mới, cách các đổi mới khác nhau liên kết
với nhau và điều kiện để chúng ta tạo ra nhiều đổi mới hơn.
Thường
rất khó để xác định nguyên nhân của những cải tiến lớn, như Internet, vì chúng
phát triển trong một thời gian dài, với nhiều yếu tố đầu vào, như điều kiện xã
hội, tiến bộ công nghệ và tất nhiên là đúng người tạo ra đúng thứ vào đúng thời
điểm.
Nhờ
có Steven Johnson, bạn có thể có được bức tranh rõ nét hơn về cách chúng ta tiến
vào thế giới thế kỷ 21, cũng như tìm hiểu cách bạn có thể hiểu rõ hơn về những
đổi mới khác trong tương lai.
Sau
đây là 3 điều chính tôi rút ra được từ cuốn How We Got To Now:
1-
Những đổi mới có thể tạo ra môi trường cho nhiều thay đổi hơn, chứ không chỉ
đơn thuần là sự thay đổi.
2-
Một cải tiến có thể đóng vai trò là bàn đạp cho một cải tiến khác bất ngờ hơn,
thậm chí có thể thay đổi tình hình pháp lý.
3-
Một số sáng kiến phụ thuộc rất nhiều vào người sáng tạo ra chúng và nền tảng
phong phú của họ.
Bạn
có muốn vén bức màn bí mật và xem xét hoạt động bên trong của sự đổi mới không?
Bắt đầu thôi!
Bài học 1: Đôi khi sự đổi mới không trực tiếp gây ra sự thay đổi, nhưng tạo ra môi trường phù hợp cho sự thay đổi.
Thời
kỳ Phục hưng là một trong những thời kỳ đổi mới nhất trong lịch sử. Kéo dài từ
khoảng thế kỷ 14 đến thế kỷ 17, mật độ các cải tiến và công nghệ cho phép xã hội
tiến bộ vẫn chưa lớn mạnh trở lại cho đến 300 năm sau đó. Thuốc súng, kính, máy
in, bồn cầu xả nước, kính hiển vi, kính thiên văn, tàu ngầm, diêm, đó chỉ là một
số ít trong số những thành tựu của nó.
Một
thứ mà có lẽ bạn không nghĩ là một cải tiến quan trọng trong thời đại này, hay
nói đúng hơn là một cải tiến quan trọng, đó là chiếc gương. Tuy nhiên, nếu
không có gương, có lẽ chúng ta đã không có thời kỳ Phục hưng ngay từ đầu.
Vào
những năm 1400, nghề thổi thủy tinh lần đầu tiên xuất hiện, giúp việc tạo ra
gương thủy tinh ở quy mô lớn trở nên dễ dàng hơn (mặc dù chúng vẫn rất đắt).
Trước gương, mọi người không thể nhìn thấy chính mình. Hãy tưởng tượng cảm giác
của bạn khi lần đầu tiên nhìn vào gương khi bạn 21 tuổi.
Thời
kỳ Phục hưng là thời kỳ của sự tự vấn và tự nhận thức. Mọi người bắt đầu suy
nghĩ và hướng nội. Chân dung tự họa xuất hiện đầu tiên, cũng như các tiểu thuyết
được viết theo ngôi thứ nhất. Tất cả những điều này sẽ không thể thực hiện được
nếu mọi người không thể nhìn vào chính mình và bắt đầu suy ngẫm.
Theo
cách này, gương không hẳn là nguyên nhân gây ra thời kỳ phục hưng, nhưng không
thể tưởng tượng được nếu không có nó – vì nó đã tạo ra môi trường thích hợp cho
sự thay đổi này.
Bài học 2: Những đổi mới có thể dẫn đến những đổi mới khác, bất ngờ hơn, thậm chí khiến luật pháp phải thay đổi.
Tuy
nhiên, đôi khi, một sự đổi mới lại có thể trực tiếp tạo ra sự thay đổi lớn lao.
Giống như bóng đèn chẳng hạn. Trước khi có ánh sáng nhân tạo, con người chỉ có
nến. Nhưng chi phí để sản xuất chúng rất đắt. Hãy đoán xem chúng được làm bằng
gì.
Những
thứ có trong đầu cá nhà táng. Nó được gọi là cá nhà táng và cách duy nhất để có
được nó là, bạn đoán đúng rồi đấy, săn và giết cá voi, một việc làm vừa khủng
khiếp vừa tốn kém. May mắn thay, Thomas Edison đã đột phá trước khi chúng tuyệt
chủng và mang đến cho con người nguồn ánh sáng bền vững bất cứ khi nào họ muốn.
Bóng
đèn đóng vai trò như bàn đạp cho những cải tiến to lớn hơn nữa được xây dựng dựa
trên nó. Ví dụ như chụp ảnh bằng đèn flash. Lần đầu tiên được Charles Smyth thử
nghiệm vào cuối những năm 1800 bằng cách tạo ra một vụ nổ nhỏ để chiếu sáng
Phòng của Vua bên trong Kim tự tháp Giza và chụp ảnh, sau đó được Jacob Riis sử
dụng để ghi lại điều kiện sống khủng khiếp tại một khu phố ở New York có tên là
Five Points.
Lần
đầu tiên được trực quan hóa, những hình ảnh này đã nhận được sự ủng hộ to lớn để
thông qua một đạo luật mới, giúp loại bỏ hiệu quả những điều kiện đó và cải thiện
đáng kể tình hình.
Và
đó là cách một sáng kiến có thể dẫn đến một sáng kiến khác, rồi một sáng kiến
khác nữa, và cuối cùng thậm chí thay đổi mọi thứ ở cấp độ chính phủ!
Bài học 3: Không phải mọi đổi mới đều là tất yếu, một số đổi mới mang tính cá nhân.
Trong
trường hợp bóng đèn, thực ra không quá hiển nhiên khi chúng ta nghĩ Thomas
Edison là nhà phát minh. Khoảng 20 người đã đưa ra những khái niệm và nguyên mẫu
hoạt động rất giống nhau vào cùng một thời điểm, Edison là người phổ biến nó
nhanh nhất.
Điều
đó có nghĩa là thứ nhất, mong muốn thay thế nến là mong muốn mang tính toàn cầu
chứ không chỉ cục bộ và thứ hai, trình độ hiểu biết trên toàn thế giới đã đủ để
tạo ra thứ gì đó có thể làm được điều đó.
Loại
đổi mới này khác với loại đổi mới dường như xuất hiện một cách bất ngờ mà thực
chất là nỗ lực của một cá nhân. Giống như khi Ada Lovelace viết thuật toán máy
tính đầu tiên – vào những năm 1840. Được giao nhiệm vụ dịch một bài báo từ tiếng
Pháp sang tiếng Anh, bà đã thêm các ghi chú vào đó, đưa ra một chương trình từng
bước để tính số Bernoulli, qua đó viết nên phần mềm đầu tiên có thể hoạt động
được.
Không
giống như bóng đèn, đây không phải là vấn đề cấp bách và không có ai xử lý nó.
Đó là kết quả của việc bà nhìn toán học theo góc độ thơ ca, bởi vì bà được đào
tạo ở cả hai lĩnh vực và do đó có sự đổi mới chịu ảnh hưởng rất lớn từ cá nhân.
Như
bạn thấy đấy, có nhiều cách để thay đổi thế giới và không quan trọng bạn là
thành viên của một nhóm lớn hay làm việc một mình.
Điều
thực sự khiến 6 phát minh làm nên thời đại trở nên sống động chính là số lượng
lớn các ví dụ được đề cập đến. Đổi mới là một quá trình phức tạp, khó khăn và
không dễ để mô tả chỉ trong vài từ, nhưng điều này làm cho việc tìm hiểu về nó
trở nên rất thú vị!
Nhận xét
Đăng nhận xét